Quan hệ sinh thái Chi Nắp ấm

Con thằn lằn chết đuối tìm thấy trong cái ấm mới mở nắp của loài N. rajah.

Tương tác rõ ràng nhất của các loài Nepenthes và môi trường xung quanh của chúng, bao gồm cả với các sinh vật khác, là quan hệ sinh vật săn mồi và con mồi. Các loài Nepenthes chắc chắn thu hút và giết chết con mồi của chúng, dù thụ động, nhưng lại thông qua việc chủ động sản xuất màu sắc hấp dẫn, mật có chứa đường và thậm chí cả hương thơm. Từ mối quan hệ này, các loài thực vật của chi chủ yếu thu được nitơphốtpho để bổ sung cho nhu cầu dinh dưỡng của chúng để phát triển, những chất thường là thiếu hụt trong khu vực chúng sinh sống. Con mồi thường xuyên nhất là nhóm đông đúc và đa dạng bao gồm các loài chân khớp (Arthropoda), với kiến và các côn trùng khác đứng đầu bảng thực đơn. Các loài chân khớp khác cũng thường được tìm thấy là nhện, bọ cạpđộng vật trăm chân, trong khi sênếch nhái là ít gặp hơn. Con mồi ít phổ biến hơn cả của các loài Nepenthes là chuột, tìm thấy ở N. rajah. Thành phần con mồi bắt được phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm cả khu vực sinh sống, nhưng có thể kết hợp hàng trăm con côn trùng khác nhau và nhiều loài khác nữa[3]. Trong khi nhiều loài Nepenthes là ăn tạp trong những gì chúng bắt được, thì ít nhất 1 loài N. albomarginata, lại có tính chuyên môn hóa và gần như chỉ bắt giữ những con mối và gần như không tạo ra mật. Loài Nepenthes albomarginata có tên gọi khoa học như vậy là do một vòng lông tơ mịn màu trắng nằm ngay dưới lớp lông măng. Lớp lông tơ mịn này ngon đối với những con mối và thu hút chúng bò vào ấm. Để tìm kiếm lông tơ ăn được này, hàng trăm tới hàng nghìn con mối đã phải bỏ mạng[10][11].

Cộng sinh

Ấm dưới của N. attenboroughii hỗ trợ một quần thể lớn các ấu trùng muỗi. Chiếc nắp thẳng đứng của loài này phô ra cái ấm của nó với môi trường sao cho nó thường chứa đầy chất lỏng[12].

Loài N. bicalcarata cung cấp không gian trong các tua cuốn rỗng thuộc ấm trên của nó cho loài kiến đục gỗ Camponotus schmitzi làm tổ. Những con kiến này lấy đi một lượng lớn con mồi từ trong ấm, và điều này có thể là có lợi cho N. bicalcarata do điều này làm giảm sự thối rữa của vật chất hữu cơ mà cây thu thập được, một điều có thể gây hại cho cộng đồng tự nhiên của các loài động vật thủy sinh hỗ trợ cho sự tiêu hóa của cây[13].

Loài N. lowii cũng tạo ra mối quan hệ phụ thuộc, nhưng ở đây là với động vật có xương sống chứ không phải là với côn trùng. Ấm của N. lowii cung cấp dịch ngọt gỉ ra trên mặt nắp ấm và chỗ đậu cho các loài đồi (chuột chù cây), những loài động vật ăn chất dịch gỉ ra và bài tiết vào trong ấm. Trong nghiên cứu năm 2009, mà người ta nghĩ ra thuật ngữ "bồn cầu của chuột chù cây", người ta đã xác định rằng khoảng 57 tới 100% lượng nitơ mà lá cây hấp thụ đến từ phân của chuột chù cây[14]. Một nghiên cứu khác công bố năm 2010 chỉ ra rằng hình dáng và kích thước của miệng ấm của loài N. lowii chính xác là khớp với kích thước của chuột chù cây điển hình (Tupaia montana)[15][16]. Sự thích nghi tương tự tìm thấy ở N. macrophyllaN. rajah, và có thể cũng có ở N. ephippiata[16].

Động vật thủy sinh

Các sinh vật có ít nhất một phần vòng đời của chúng trong ấm của các loài các nắp ấm thường được gọi là động vật thủy sinh nắp ấm. Các loài động vật thủy sinh phổ biến nhất, thường tương ứng với bậc dinh dưỡng cao hàng đầu của hệ sinh thái động vật thủy sinh, là ấu trùng của nhiều loài muỗi. Các loài động vật thủy sinh khác trong nắp ấm còn bao gồm cả ấu trùng ruồiruồi nhuế, nhện, ve bét, kiến, và thậm chỉ cả một loài cua (Geosesarma malayanum). Nhiều loài trong số này chỉ chuyên sống trong ấm của một loài nắp ấm mà không thể tìm thấy ở những loài khác. Những loài này được gọi là cộng sinh nắp ấm (nepenthebiont). Những loài khác, thường gắn với nhưng không phụ thuộc vào các loài nắp ấm, được gọi là ái nắp ấm (nepenthophile). Ngược lại, nepenthexenes, hiếm thấy trong ấm của nắp ấm, nhưng thường sẽ xuất hiện khi sự thối rữa đạt tới một ngưỡng nhất định, thu hút ấu trùng ruồi mà thông thường không thể tìm thấy trong cộng đồng động vật thủy sinh nắp ấm. Quan hệ sinh thái phức tạp giữa nắp ấm và động vật thủy sinh nắp ấm vẫn chưa được hiểu rõ, nhưng người ta cho rằng quan hệ này là hỗ sinh: quần động vật thủy sinh được cung cấp nơi trú ẩn, thức ăn hoặc sự bảo vệ còn cây nắp ấm cho chúng chỗ trú lại nhận được sự xúc tiến cho quá trình phân rã con mồi bắt được, làm tăng tần suất tiêu hóa và kiềm chế các quần thể vi khuẩn có hại[13][17][18].